Tên khác: Củ ấu tàu, Củ gấu tàu, Xuyên ô, Thảo ô
Tên khoa học: Ô đầu, Phụ tử thu được từ một số loài thuộc chi Aconitum, họ Mao lương (Ranunculaceae): Aconitum carmichaeli Debx., Aconitum chinense Paxt., Aconitum fortunei Hemsl., Aconitum napellus L. (Loài phổ biến nhất là Aconitum camichaeli Debx.)
Mô tả cây: Cây thảo đa niên cao 0,6-1 m, thân mọc thẳng đứng, có lông ngắn. Lá mọc so le, xẻ thùy, gân lá chân vịt, mép lá có răng cưa to. Hoa lớn, màu xanh tím mọc thành chùm dày dài 5-15 cm ở ngọn. Lá bắc nhỏ. Đài sau giống hình mũ nông. Quả có 5 đại, mỏng như giấy, dài 23 mm, hạt có vẩy ở trên mặt.
Rễ phát triển thành củ gồm củ mẹ và củ con. Củ rất đa dạng nhưng thường có hình con quay. Vỏ ngoài đen, phía trong trắng, nếm thấy tê lưỡi
Bộ phận dùng, thu hái và chế biến: Rễ củ (Radix Aconiti) là rễ củ mẹ của các loài Ô đầu: Aconitum napellus L., A. chinense Paxt., A. fortunei Hemsl. và A. carmichaeli Debx.
Trong Đông y phân làm 2 loại do cách chế biến khác nhau: Ô đầu là củ mẹ không qua chế biến, rất độc thường chỉ dùng ngoài. Phụ tử là củ con, thường có qua chế biến thành phụ tử chế, ít độc hơn được dùng đường uống. Phụ tử chế được phân loại theo cách chế biến gồm: diêm phụ, hắc phụ, bạch phụ.
Thành phần hóa học: Chủ yếu là các C19-diterpen alkaloid (aconitin, hypaconitin, mesaconitin, lipoaconitin, lipomesaconitin…). Ngoài ra còn có các C20-diterpenoid alkaloid (ignavin, delgradin,…).
Công dụng và cách dùng: Phụ tử chế: Đông y coi như là thuốc hồi dương, khử phong hàn. Dùng để chữa một số triệu chứng nguy cấp, mạch gần như không có, ra nhiều mồ hôi; trị các chứng tê thấp, nhức mỏi.
Ô đầu thường chỉ được dùng ngoài làm thuốc xoa bóp trị đau nhức.
Tây y dùng làm thuốc ho, ra mồ hôi.
Ghi chú: Ô đầu rất độc, liều độc: 0,02 – 0,05 mg/kg thể trọng. Khi ngộ độc có cảm giác kiến bò ở đầu chi, kích thích thần kinh sinh ba sau đó gây tê liệt, hạ thân nhiệt, mạch chậm, không đều cuối cùng chết do ngạt.