Tên khác: Quảng hoắc hương.
Tên khoa học: Pogostemon cablin (Blanco) Benth., Lamiaceae(họ Hoa môi)
Mô tả cây: Cây thảo, sống lâu năm, cao 30-60 cm, gốc hóa gỗ, toàn cây có lông mịn, mùi thơm nhẹ. Thân vuông, màu xanh hay hơi nâu tím, có mùi thơm. Lá mọc đối chéo chữ thập; cuống lá dài 1-3 cm; phiến lá, hình trứng 4-6 × 2-4 cm, đầu hơi thuôn nhọn, mép có răng cưa to không đều, gân nổi rõ hình mạng, có lông ở hai mặt. Hoa mọc thành bông ở đầu cành hoặc kẽ lá, hoa nhỏ màu hồng tím nhạt; đài hoa có 5 răng, hình ống, mặt ngoài nhiều lông; tràng hoa chia 2 môi, môi trên kéo dài; nhị 4, thò ra khỏi tràng; chỉ nhị rời. Quả bế hình cầu hơi dẹt; có hạt cứng. Cây trồng ở Việt Nam hiếm thấy ra hoa và quả.
Bộ phận dùng, thu hái và chế biến: Lá (Folium Patchouli); tinh dầu (Oleum Patchouli). Lá thu hái khi trời ráo, loại bỏ lá sâu và già úa, phơi nắng nhẹ hay sấy khô ở 40-45 oC. Dùng lá tươi để cất tinh dầu.
Thành phần hóa học: Lá có tinh dầu và các flavonoid (retusin, pachypodol, dimethoxyflavon, trimethoxy flavanon, dimethoxy flavanon, trimethoxyflavanon).
Tinh dầu Hoắc hương (thường được gọi là tinh dầu patchouli) được chưng cất từ cành lá có thành phần chính là các serquiterpen trong đó quan trọng nhất là 32-38%. Ngoài ra còn có α, β, γ-patchoulen, seychellen, α-himachalen, guaien, pogoston…
Công dụng và cách dùng: Chữa cảm sốt, cúm, nhức đầu, ăn không tiêu, đầy bụng, nôn mửa, tiêu chảy. Dùng dưới dạng thuốc hãm hay thuốc sắc.
Tinh dầu và patchouli alcol được dùng làm chất định hương trong công nghệ mỹ phẩm (nước hoa, dầu gội, xà phòng) và trong kỹ nghệ thực phẩm (pha chế rượu mùi, thức uống).
Ghi chú: Phân biệt với Thổ hoắc hương (Hoắc hương núi hay Xuyên hoắc hương – Agastache rugosa (Fisch et Mey) O.Kuntze, Lamiaceae (họ Hoa môi).
Một số loài Pogostemon khác như: Pogostemon heyneanus Benth. và Pogostemon plectrantoides Desf. cũng được dùng để lấy tinh dầu.
